𨀈𬧐內容

恪別𡧲版𢯢𢷮𧵑「戰爭越南」

19.137 bytes added 、 𣈜25𣎃6𢆥2015
𣳔109: 𣳔109:


如丕𢆥[[1960]]𧿨成𠬠𢆥𣎏變動𡘯、𫘑𠚢𠬠階段𡤓𧵑戰爭越南。各努力潭判政治𥆂統一越南㐌空𣎏結果、自𠉞鬥爭武裝𠱊羅方向主要。
如丕𢆥[[1960]]𧿨成𠬠𢆥𣎏變動𡘯、𫘑𠚢𠬠階段𡤓𧵑戰爭越南。各努力潭判政治𥆂統一越南㐌空𣎏結果、自𠉞鬥爭武裝𠱊羅方向主要。
==== 沔北 ====
{{正|戰爭越南(沔北、1954-1959)}}
{{䀡添|改革𪽞𡐙在沔北越南|塘長山|保舉國會越南1960}}
Để phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội và chuẩn bị cho cuộc chiến dự kiến có thể sắp xảy ra,<ref>[http://123.30.190.43:8080/tiengviet/tulieuvankien/vankiendang/details.asp?topic=191&subtopic=9&leader_topic=545&id=BT2090533685 Báo cáo về nhiệm vụ kế hoạch ba năm (1958-1960) phát triển và cải tạo kinh tế quốc dân, Văn kiện hội nghị TW 2, Đảng cộng sản Việt Nam] Trích: ''Sau khi hoà bình lập lại, ở miền Bắc, nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân về cơ bản đã hoàn thành; miền Bắc đã bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta phải làm xong cuộc vận động cải cách ruộng đất; đồng thời phải khôi phục kinh tế để tiến lên phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, xây dựng và củng cố miền Bắc vững mạnh, làm cơ sở cho cuộc đấu tranh thống nhất Tổ quốc.''</ref> tại miền Bắc, [[Đảng Cộng sản Việt Nam|Đảng Lao động Việt Nam]] tái tổ chức lại xã hội (bao gồm cả lực lượng vũ trang) theo mô hình xã hội chủ nghĩa như ở các nước [[Liên Xô]], [[Trung Quốc]], ít nhiều kết hợp với các nguyên tắc của một xã hội thời chiến.
Về nông nghiệp, ngay từ năm 1953, Đảng Lao động tổ chức các chiến dịch [[cải cách ruộng đất]] để thực hiện mục tiêu ''người cày có ruộng'', nhưng phạm phải một số sai lầm nghiêm trọng.<ref>Lê Mậu Hãn (chủ biên), Trần Bá Đệ, Nguyễn Văn Thư,..., ''Đại cương Lịch sử Việt Nam tập 3'', NXB Giáo dục, 2007. Trang 99, 140: ''Tháng 11-1953, BCHTW họp hội nghị lần thứ V và Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng đã thông qua Cương lĩnh ruộng đất của Đảng và quyết định tổ chức thực hiện cải cách ruộng đất ở vùng tự do... Cuộc cách mạng ruộng đất đã xóa bỏ quyền chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ phong kiến, xác lập quyền sở hữu ruộng đất của nông dân lao động, mục tiêu "người cày có ruộng" đã được thực hiện''.</ref> Trong 3.563 xã thuộc 22 tỉnh và những vùng ngoại thành ở miền Bắc đã thực hiện cải cách ruộng đất, các đội cải cách ruộng đất đã chỉ ra 47.890 địa chủ, chiếm 1,87% tổng số hộ và 2,25% tổng số nhân khẩu ở nông thôn. Trong số địa chủ đó, có 6.220 hộ là cường hào gian ác, chiếm 13% tổng số hộ địa chủ. Nghị quyết của Hội nghị Trung ương [[Đảng Lao động Việt Nam]] lần thứ 14 về tổng kết cải cách ruộng đất đã nêu rõ: "''Những tên địa chủ có nhiều tội ác với nông dân và là phản động đầu sỏ cùng một số tổ chức của chúng đã bị quần chúng tố cáo và bị trừng trị theo pháp luật''". Số địa chủ bị tuyên án tử hình trong chương trình Cải cách ruộng đất không được thống kê chính xác và gây tranh cãi. Các nhà nghiên cứu phương Tây đưa ra các số liệu rất khác nhau và không thống nhất, theo [[Gareth Porter]]: từ 800 đến 2.500 người bị tử hình;<ref>Gavin W. Jones, "Population Trends and Policies in Vietnam: Population and Development Review", Vol. 8, No. 4 (Dec., 1982), pp. 783-810</ref> theo Edwin E. Moise (sau một công cuộc nghiên cứu sâu rộng hơn): vào khoảng 5.000; theo giáo sư sử học [[James P. Harrison]]: vào khoảng 1.500 người bị tử hình cộng với 1.500 bị giam giữ.<ref>''The Endless War: Vietnam Struggle For Independence'', Columbia University Press, 1989, trang 149</ref> Do tiến hành vội vã, nhiều địa chủ bị kết án oan sai, nên từ năm 1956, các chiến dịch sửa sai được tiến hành, các địa chủ bị kết án oan được trả tự do, minh oan, trả lại danh dự và được tạo điều kiện sinh sống<ref>[http://thuvienphapluat.vn/archive/Van-ban-khac/Ke-hoach-sua-chua-sai-lam-cai-cach-ruong-dat-vb53946t33.aspx KẾ HOẠCH TIẾN HÀNH SỬA CHỮA SAI LẦM VỀ CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT NHIỆM VỤ CHUNG], KEHOACH-TTg, Phạm Văn Đồng, Hà Nội, ngày 20 tháng 12 năm 1956</ref>. Qua cải cách ruộng đất ở miền Bắc, trên 810.000 [[hecta]] ruộng đất của đế quốc và địa chủ, ruộng đất tôn giáo, ruộng đất công và nửa công nửa tư đã bị tịch thu, trưng thu, trưng mua để chia cho 2.220.000 hộ nông dân lao động và dân nghèo ở nông thôn, bao gồm trên 9.000.000 nhân khẩu. Như vậy là 72,8% số hộ ở nông thôn miền Bắc đã được chia ruộng đất. Tính đến tháng 4 năm 1953, số ruộng đất trực tiếp tịch thu của địa chủ chia cho nông dân bằng 67,67% tổng số ruộng đất mà địa chủ chiếm hữu nǎm 1945.<ref>[http://123.30.190.43:8080/tiengviet/tulieuvankien/vankiendang/details.asp?topic=191&subtopic=9&leader_topic=545&id=BT2090533858 Nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ 14 về tổng kết cải cách ruộng đất], Văn kiện hội nghị, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam</ref>
Năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố: ''Thời kỳ khôi phục kinh tế đã kết thúc và mở đầu thời kỳ phát triển kinh tế một cách có kế hoạch''. Tháng 11/1958, Đảng Lao động quyết định đề ra kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa trong 3 năm 1958-1960 và tiến hành [[cải tạo xã hội chủ nghĩa]] (bao gồm hợp tác hoá nông nghiệp và cải tạo tư bản tư doanh)<ref>Lê Mậu Hãn (chủ biên), Trần Bá Đệ, Nguyễn Văn Thư,..., ''Đại cương Lịch sử Việt Nam tập 3'', NXB Giáo dục, 2007. Trang 147, 148.</ref><ref>[http://123.30.190.43:8080/tiengviet/tulieuvankien/vankiendang/details.asp?topic=191&subtopic=9&leader_topic=545&id=BT2090533685 Báo cáo về nhiệm vụ kế hoạch ba năm (1958-1960) phát triển và cải tạo kinh tế quốc dân], Văn kiện Đảng, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam</ref>, kế hoạch phát triển và cải tạo kinh tế, phát triển văn hóa của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được Quốc hội thông qua ngày 14 tháng 12 năm 1958<ref>[http://www.moj.gov.vn/vbpq/Lists/Vn%20bn%20php%20lut/View_Detail.aspx?ItemID=950 NGHỊ QUYẾT VỀ TÌNH HÌNH, NHIỆM VỤ VÀ KẾ HOẠCH 3 NĂM (1958 - 1960) PHÁT TRIỂN VÀ CẢI TẠO KINH TẾ, PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ], QUỐC HỘI NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ HỌP KHOÁ THỨ IX, CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ BỘ TƯ PHÁP</ref>. Đến cuối năm 1960, ở miền Bắc có 84,8% số hộ nông dân đã gia nhập hợp tác xã, chiếm 76% tổng diện tích canh tác, 520 hợp tác xã ngư nghiệp chiếm 77,2% tổng số hộ đánh cá, có 269 hợp tác xã nghề muối chiếm 85% tổng số hộ làm muối. Ở thành thị, 100% số cơ sở công nghiệp tư bản tư doanh thuộc diện cải tạo đã được tổ chức thành xí nghiệp công tư hợp doanh, xí nghiệp hợp tác, 1.553 doanh nhân thành người lao động. Có 90% tổng số thợ thủ công trong diện cải tạo đã tham gia các hợp tác xã thủ công nghiệp, trong đó hơn 70.000 thợ thủ công chuyển sang sản xuất nông nghiệp. Trong lĩnh vực thương nghiệp, 60% tổng số người buôn bán nhỏ, làm dịch vụ, kinh doanh ngành ăn uống thuộc diện cải tạo đã tham gia hợp tác xã, tổ mua bán, làm đại lý cho thương nghiệp quốc doanh và trên 10.000 người đã chuyển sang sản xuất.<ref>Giai đoạn 1955-1975: Xây dựng CNXH và Đấu tranh thống nhất đất nước, [http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/noidungchinhsachthanhtuu?categoryId=797&articleId=10001575 Phần 2: Hoàn thành Cải tạo xã hội chủ nghĩa, bước đầu phát triển kinh tế và văn hóa - đưa miền Bắc vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội], Cổng Thông tin điện tử Chính phủ</ref>
Về văn hóa, những sai lầm của cải cách ruộng đất đã gây tác động đến một số giới văn nghệ sĩ. Theo [[Đại cương Lịch sử Việt Nam]] do [[Lê Mậu Hãn]] chủ biên, trong bối cảnh phương Tây đang tiến hành gây rối loạn ở [[hệ thống xã hội chủ nghĩa]], từ đầu năm 1955 lực lượng tình báo nước ngoài đã kích động một bộ phận văn nghệ sĩ có chính kiến đối lập tạo nên [[phong trào Nhân Văn - Giai Phẩm|phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm]]. Ban đầu, phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm chỉ phê phán những sai lầm, nhưng về sau dần phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ, phủ nhận quyền lãnh đạo duy nhất của [[Đảng Cộng sản Việt Nam|Đảng Lao động Việt Nam]] về Chính trị và Nhà nước thậm chí kích động kêu gọi nhân dân xuống đường biểu tình. Cuối năm 1956, sau các biến động trên thế giới, chính quyền quyết định chấm dứt phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm.<ref>Lê Mậu Hãn (chủ biên), Trần Bá Đệ, Nguyễn Văn Thư,..., ''Đại cương Lịch sử Việt Nam tập 3'', NXB Giáo dục, 2007. Trang 144, 145: Giữa lúc nhân dân ta đang ra sức khôi phục kinh tế ở miền Bắc và đấu tranh chống lại sự khủng bố đàn áp điên cuồng của Mỹ Diệm ở miền Nam thì ở các nước Xã hội Chủ nghĩa Đông Âu cũng diễn ra các cuộc đấu tranh chính trị gay gắt... Những vụ lộn xộn ở Poznań (Ba Lan), Budapest (Hungary) đã xảy ra. Bầu không khí căng thẳng trên thế giới đã có tác động đến Việt Nam. Còn ở miền Bắc nước ta, Đảng và Chính phủ phải phạm phải những sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức. Tình hình đó đã gây tác động đến tư tưởng quần chúng, nhất là tầng lớp tư sản, tiểu tư sản và trí thức. Lợi dụng tình hình này, bọn tình báo nước ngoài được cài lại ở miền Bắc tìm cách móc nối với phản động bên trong, cùng với bọn này lôi kéo một số người bất mãn trong giới trí thức và văn nghệ sĩ để chống lại sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền nhân dân... Trong bối cảnh đó, báo "Nhân văn", tập san "Giai phẩm" và "Đất mới" lần lượt ra đời ở Hà Nội. Khuynh hướng chính trị của "Nhân Văn-Giai Phẩm" đi từ phê phán gay gắt những sai lầm thiếu sót của Đảng và Chính phủ trong việc thực hiện cải cách ruộng đất, tổ chức quản lý kinh tế, an ninh chính trị, về quyền tự do dân chủ, về văn hóa văn nghệ, đến phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng trên mặt trận văn hóa văn nghệ, quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng về Chính trị, về Nhà nước... Đến cuối năm 1956, vài người cầm đầu "Nhân Văn-Giai Phẩm" đã bộc lộ khuynh hướng chống Đảng, chống chế độ ngày càng công khai. Báo Nhân văn số 6 có bài kích động kêu gọi nhân dân xuống đường biểu tình. Song Đảng viên, công nhân nhà in Xuân Thu (nơi tin báo Nhân văn) đã phát hiện ra và kịp thời kiến nghị với chính quyền để xử lý. Ngày 15-12-1956, Ủy ban Hành chính Thành phố đã ra quyết định đình bản và cấm lưu hành báo Nhân văn. Qua đấu tranh, một số người trong nhóm "Nhân Văn-Giai Phẩm" đã tự kiểm điểm, tự phê bình và nhận những sai lầm của họ. Đảng còn giúp đỡ họ tiếp tục rèn luyện tư tưởng và chính trị. Một số bị xử lý hành chính do những sai phạm, còn số ít hoạt động phạm pháp thì bị xử lý bằng pháp luật. Chấm dứt hoạt động của "Nhân Văn-Giai Phẩm".''</ref>
Về xã hội, chính sách về kinh tế khiến mô hình xã hội cũ thay đổi: giai cấp địa chủ hầu như bị xóa bỏ, giai cấp tư sản thì được đưa vào các cơ sở công tư hợp doanh, được nhà nước mua lại tài sản để trở về làm lao động.<ref>Lê Mậu Hãn (chủ biên), Trần Bá Đệ, Nguyễn Văn Thư,..., ''Đại cương Lịch sử Việt Nam tập 3'', NXB Giáo dục, 2007. Trang 148: Để cải tạo tư sản bằng biện pháp hòa bình, ta chủ trương mua lại, chuộc lại tư liệu sản xuất của tư sản và trả dần tiền chuộc cho nhà tư sản, đưu họ vào công tư hợp doanh hoặc các xí nghiệp hợp tác (chủ yếu là công tư hợp doanh, hình thức cao của chủ nghĩa tư bản nhà nước), xóa bỏ giai cấp tư sản, cải tạo nhà tư sản thành người lao động''.</ref> Quốc hội, cơ quan công quyền tối cao của người dân, sau cuộc bầu cử năm 1946 thì tới năm 1960 mới tuyển cử Khóa II.<ref name="Phụ">Lê Xuân Khoa. ''Việt Nam, 1945-1995 Tập I'' Bethesda, MD: Tiên Rồng, 2004. tr 523-525.</ref> Do không họp thường xuyên, vai trò của Quốc hội bị hạn chế và không thực thi đầy đủ trách nhiệm [[cơ quan lập pháp|lập pháp]] mà thường chỉ thông qua sắc lệnh và đạo luật mà Chính phủ đưa ra, các vấn đề đột xuất đã có ban Thường vụ Quốc hội đặc quyền đảm nhiệm.<ref name="Phụ"/> Trong thời kỳ này, xã hội Miền Bắc hoàn toàn bị chi phối bởi sự điều khiển của chính quyền,<ref name="Intellectual">Ninh, Kim NB. ''A World Transformed, The Politics of Culture in Revolutionary Vietnam, 1945-1965''. Ann Arbor, MI: The University of Michigan Press, 2002. 144-148.</ref> các [[quyền dân sự]] bị thu hẹp, các [[quyền tự do chính trị]], [[tự do ngôn luận]], [[tự do báo chí|xuất bản báo chí]] bị hạn chế tối đa<ref name="Phụ"/><ref name="Peaceful" />, quyền làm việc, cư ngụ, đi lại, giao thiệp, cưới hỏi đều phải có sự cho phép của Nhà nước. Đời sống xã hội dựa trên nguyên tắc kỷ luật hóa cao độ với sự lãnh đạo toàn diện của [[Đảng Cộng sản Việt Nam|Đảng Lao động Việt Nam]]. Xã hội nhanh chóng chuẩn bị cho cuộc sống quân sự hóa cao độ ''"Toàn dân - Toàn diện"'' theo phương châm ''"Mỗi người dân đều là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài"''. Tóm lại, cả xã hội Miền Bắc hoạt động vì một mục tiêu chung: làm hậu cần cho chiến trường ở Miền Nam.<ref name="Peaceful">Catino, Martin Scott. ''The Aggressors: Ho Chi Minh, North Vietnam & the Communist Bloc''. Indianapolis, IN: Dog Ear Publishing, 2010. tr 87, 90-91</ref>
Việc hiện đại hóa quân đội được tiến hành nhưng chậm và không đồng bộ, nhiều [[sư đoàn]] bộ binh được thành lập thêm nhưng vẫn mang tính bộ binh đơn thuần, hỏa lực hạng nặng thiếu và chắp vá. Quân đội chưa có các quân binh chủng kỹ thuật cao như [[Không quân Nhân dân Việt Nam|không quân]], radar, [[Quân chủng Hải quân Việt Nam|hải quân]], [[Binh chủng Tăng-Thiết giáp, Quân đội Nhân dân Việt Nam|tăng thiết giáp]]... còn đang trong quá trình sơ khai; phương tiện vận tải, thông tin liên lạc còn yếu kém. Nguyên nhân là do nền công nghiệp của [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] chưa lớn mạnh, đồng thời dựa nhiều nguồn viện trợ từ [[Liên Xô]], [[Trung Quốc]] có phần hạn chế trong giai đoạn này. Vào cuối năm 1959, miền Bắc đã bí mật cho tiến hành thăm dò, phát triển tuyến đường tiếp vận chiến lược: [[Đường Trường Sơn]] – còn được gọi là [[Đường Trường Sơn|Đường mòn Hồ Chí Minh]]. Đây sẽ là một tuyến vận chuyển chiến lược đảm bảo nhu cầu chiến tranh sẽ được mở rộng tại miền Nam sau này. Mặc dù vào lúc đó, tuyến đường này vẫn chỉ là các lối mòn trong rừng cho giao liên và các toán cán bộ vào Nam<ref>Prados, John. The Blood Road: The Ho Chi Minh Trail and the Vietnam War, page 15, New York: John Wiley and Sons, 1998.</ref>.
Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong Nghị quyết ngày 20-9-1955 tuyên bố: Dựa trên bản cương lĩnh của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chính phủ đã vạch rõ đường lối đại đoàn kết toàn dân để cùng nhau đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng phương pháp hoà bình. Cuộc tổng tuyển cử tự do để thống nhất nước nhà sẽ tiến hành trong toàn quốc theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bí mật. Mục đích của cuộc tổng tuyển cử tự do này là bầu một Quốc hội thống nhất để cử một Chính phủ Liên hợp duy nhất cho toàn nước Việt Nam. Việc thành lập Chính phủ Liên hợp sẽ tăng cường đoàn kết giữa các đảng phái, các tầng lớp, các dân tộc, các miền trên toàn cõi Việt Nam... Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà kêu gọi đồng bào miền Nam hãy đoàn kết đấu tranh chặt chẽ và rộng rãi trong Mặt trận Tổ quốc nhằm giữ gìn quyền lợi hàng ngày của mình và giành hoà bình, thống nhất cho Tổ quốc. Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà kêu gọi toàn thể nhân dân Việt Nam từ Bắc chí Nam hãy đoàn kết chặt chẽ trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, hăng hái đấu tranh thực hiện cương lĩnh của Mặt trận, nhằm củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, do đó mà hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.<ref>NGHỊ QUYẾT CỦA QUỐC HỘI NƯỚC Việt Nam DÂN CHỦ CỘNG HOÀ NGÀY 20 THÁNG 9 NĂM 1955 ĐỐI VỚI BÁO CÁO CHUNG CỦA CHÍNH PHỦ</ref>


==參考==
==參考==