分級行政越南

(恪) ←番版𫇰 | 番版㵋一 () | 番版㵋→ ()

Phân cấp hành chính Việt Nam là sự phân chia các đơn vị hành chính của Việt Nam thành từng tầng, cấp theo chiều dọc. Theo đó cấp hành chính ở trên (cấp trên) sẽ có quyền quyết định cao hơn, bắt buộc đối với cấp hành chính ở dưới (hay cấp dưới).

Thông thường, nước được phân làm 3 cấp là:

Thời kỳ 1945-1954

Theo Hiến pháp năm 1946: Nước Việt Nam về phương diện hành chính gồm có ba bộ: Bắc, [[[Miền Trung (Việt Nam)|Trung]], Nam. Mỗi bộ chia thành tỉnh, mỗi tỉnh chia thành huyện, mỗi huyện chia thành xã (chương V, Điều thứ 57). Như vậy vào thời kỳ này các đơn vị hành chính của Việt Nam được phân thành 4 cấp, ngoài các cấp xã, huyện, tỉnh như sau này vẫn còn thì còn có cấp Bộ (cả nước có 3 Bộ: Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ). Các tỉnh thời kỳ 1945-1946 (65 tỉnh):

Tuy nhiên, đơn vị hành chính cấp Bộ (của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) chỉ tồn tại trong khoảng vài năm rồi bỏ. Nhưng chính quyền Quốc gia Việt Nam thân Pháp thì lập chức Thủ hiến cho mỗi Phần (chính là Bộ theo cách gọi của họ).

Năm 1950, 2 tỉnh Phúc Yên và Vĩnh Yên hợp nhất thành tỉnh Vĩnh Phúc.

Thời kỳ 1954-1975

Miền Bắc Việt Nam

Trong thành phố trực thuộc trung ương, thời kỳ 1954-1958 có các cấp hành chính quận (ở cả nội thành và ngoại thành), dưới quận có khu phố (ở nội thành) và xã (ở ngoại thành, ngoài ra có phố là cấp không thông dụng, như phố Gia Lâm ở Hà Nội). Năm 1958, nội thành bỏ quận, thay bằng khu, dưới khu là khối dân phố, ngoại thành có quận (từ năm 1961 đổi là huyện) và xã. Năm 1974, đổi tên gọi khối dân phố thành cấp tiểu khu.

Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà năm 1954 có 30 tỉnh, 2 thành phố trực thuộc Trung ương (Hà Nội, Hải Phòng), 1 đặc khu (Hòn Gai) và khu vực Vĩnh Linh:

Năm 1955: Tỉnh Quảng Yên và đặc khu Hòn Gai hợp nhất thành khu Hồng Quảng; bỏ 2 tỉnh Lai Châu, Sơn La để lập Khu tự trị Thái Mèo.

Theo Hiến pháp năm 1959, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phân cấp hành chính như sau:

Các đơn vị hành chính trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà phân định như sau:
Nước chia thành tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương;
Tỉnh chia thành huyện, thành phố, thị xã;
Huyện chia thành xã, thị trấn.
Các đơn vị hành chính trong khu vực tự trị do luật định (chương VII, Điều 78).

Như vậy ở thời kỳ này cấp Bộ đã không còn, nhưng lại xuất hiện các khu tự trị. Miền Bắc Việt Nam có 2 khu tự trị, được thành lập từ năm 1955-1956: Khu tự trị Tây Bắc (ban đầu gọi là Khu tự trị Thái Mèo) và Khu tự trị Việt Bắc. Khu tự trị Tây Bắc lúc đầu chỉ có các cấp châu (tương đương huyện) và xã, bỏ cấp tỉnh, nhưng đến năm 1963 đã lập lại các tỉnh. Hai khu tự trị này tồn tại đến tháng 12 năm 1975.

Năm 1962: 2 tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh hợp nhất thành tỉnh Hà Bắc, tỉnh Kiến An nhập vào thành phố Hải Phòng; tái lập 2 tỉnh Lai Châu, Sơn La và thành lập tỉnh Nghĩa Lộ thuộc Khu tự trị Tây Bắc.

Năm 1963: Tỉnh Hải Ninh và khu Hồng Quảng hợp nhất thành tỉnh Quảng Ninh.

Năm 1965: 2 tỉnh Bắc Cạn, Thái Nguyên hợp nhất thành tỉnh Bắc Thái; 2 tỉnh Hà Nam, Nam Định hợp nhất thành tỉnh Nam Hà, 2 tỉnh Hà Đông, Sơn Tây hợp nhất thành tỉnh Hà Tây.

Năm 1968: 2 tỉnh Hưng Yên, Hải Dương hợp nhất thành tỉnh Hải Hưng; 2 tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc hợp nhất thành tỉnh Vĩnh Phú.

Miền Nam Việt Nam

Chính quyền Việt Nam Cộng hòa phân ra các cấp hành chính: tỉnh, quận (tương đương với quận và huyện ngày nay), xã; ngoài ra còn có 10 thị xã tự trị. Toàn miền Nam Việt Nam từ khoảng năm 1965 chia thành 44 tỉnh.

Về mặt quân sự, trên cấp tỉnh còn có Vùng chiến thuật (lập ra năm 1961) và đến năm 1970 đổi tên thành Quân khu. Tất cả miền Nam Việt Nam có 4 Vùng chiến thuật (Quân khu). Cấp tỉnh đóng trụ sở tại thị xã, về mặt quân sự gọi là tiểu khu, cấp quận đóng trụ sở tại thị trấn quận lị, về mặt quân sự gọi là chi khu.

Tỉnh Gia Định về sau cùng với thủ đô Sài Gòn trở thành Biệt khu Thủ Đô, đứng đầu là Đô trưởng.

Từ năm 1975, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam chỉ dùng tên gọi quận cho khu vực nội thành thành phố, các quận còn lại đổi thành huyện.

Sau khi thống nhất đất nước

Tháng 12 năm 1975, Quốc hội Việt Nam khóa V đã ra nghi quyết theo đó cấp khu trong hệ thống hành chính bị bãi bỏ. Các khu tự trị, vì thế bị giải thể.

Cuối năm 1975, 2 tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn hợp nhất thành tỉnh Cao Lạng; 2 tỉnh Nam Hà và Ninh Bình hợp nhất thành tỉnh Hà Nam Ninh; 2 tỉnh Hà Tây và Hòa Bình hợp nhất thành tỉnh Hà Sơn Bình; 2 tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang hợp nhất thành tỉnh Hà Tuyên; 3 tỉnh Lào Cai, Nghĩa Lộ (trừ 2 huyện Bắc Yên, Phù Yên nhập vào tỉnh Sơn La) và Yên Bái hợp nhất thành tỉnh Hoàng Liên Sơn; 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh hợp nhất thành tỉnh Nghệ Tĩnh.

Đầu năm 1976, 3 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên và khu vực Vĩnh Linh hợp nhất thành tỉnh Bình Trị Thiên; 2 tỉnh Quảng Nam và Quảng Tín hợp nhất thành tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng; 2 tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định hợp nhất thành tỉnh Nghĩa Bình; 2 tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa hợp nhất thành tỉnh Phú Khánh; 3 tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận và Bình Tuy hợp nhất thành tỉnh Thuận Hải; 3 tỉnh Darlac, Pleiku, Phú Bổn hợp nhất thành tỉnh Gia Lai - Kon Tum; 2 tỉnh Lâm Đồng và Tuyên Đức hợp nhất thành tỉnh Lâm Đồng mới; 3 tỉnh Biên Hòa, Long Khánh, Phước Tuy hợp nhất thành tỉnh Đồng Nai; thành phố Sài Gòn và tỉnh Gia Định hợp nhất thành thành phố Hồ Chí Minh; 3 tỉnh Bình Dương, Bình Long, Phước Long hợp nhất thành tỉnh Sông Bé; 3 tỉnh Hậu Nghĩa, Kiến Tường, Long An hợp nhất thành tỉnh Long An mới; 2 tỉnh Định TườngGò Công hợp nhất thành tỉnh Tiền Giang; 2 tỉnh Kiến PhongSa Đéc hợp nhất thành tỉnh Đồng Tháp; 2 tỉnh Vĩnh Long và Vĩnh Bình hợp nhất thành tỉnh Cửu Long, tỉnh Kiến Hòa đổi lại tên cũ là tỉnh Bến Tre, 3 tỉnh Ba Xuyên, Chương Thiện, Phong Dinh hợp nhất thành tỉnh Hậu Giang, 2 tỉnh An Xuyên và Bạc Liêu hợp nhất thành tỉnh Minh Hải.

Năm 1980, Việt Nam có Hiến pháp mới. Tại đây quy định rằng: Các đơn vị hành chính của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau:

Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và đơn vị hành chính tương đương;

Tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; thành phố trực thuộc Trung ương chia thành quận, huyện và thị xã;

Huyện chia thành xã và thị trấn; thành phố thuộc tỉnh, thị xã chia thành phường và xã; quận chia thành phường.

Các đơn vị hành chính kể trên đều thành lập Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. (chương IX, Điều 113).

Ngày 3 tháng 1 năm 1981, Hội đồng Chính phủ quyết định thống nhất tên gọi các đơn vị hành chính cơ sở ở nội thành, nội thị thuộc các thành phố, thị xã là phường (trước đây là tiểu khu), dưới cấp quận (trước đây là khu).

Năm 1976 cả nước có 38 đơn vị hành chính cấp tỉnh, gồm 35 tỉnh và 3 thành phố.

Năm 1978: tách tỉnh Cao Lạng thành 2 tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn.

Năm 1979: thành lập Đặc khu Vũng Tàu-Côn Đảo, tương đương cấp tỉnh.

Năm 1982: sáp nhập huyện đảo Hoàng Sa vào tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng, sáp nhập huyện đảo Trường Sa vào tỉnh Phú Khánh.

Năm 1989: tỉnh Bình Trị Thiên tách ra làm 3 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế, tỉnh Nghĩa Bình tách ra thành 2 tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, tỉnh Phú Khánh tách ra thành 2 tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa, huyện đảo Trường Sa trực thuộc tỉnh Khánh Hoà. Cả nước có 44 tỉnh thành.

Năm 1991: tỉnh Hà Sơn Bình tách ra thành 2 tỉnh Hà Tây, Hoà Bình; tỉnh Hà Nam Ninh tách ra thành 2 tỉnh Nam Hà, Ninh Bình; tỉnh Hà Tuyên tách ra thành 2 tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang; tỉnh Hoàng Liên Sơn tách ra thành 2 tỉnh Lào Cai, Yên Bái; tỉnh Nghệ Tĩnh tách ra thành 2 tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh; tỉnh Gia Lai-Kon Tum tách ra thành 2 tỉnh Gia Lai, Kon Tum; tỉnh Thuận Hải tách ra thành 2 tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận; tỉnh Cửu Long tách ra thành 2 tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh; tỉnh Hậu Giang tách ra thành 2 tỉnh Cần ThơSóc Trăng. Thành lập tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, đồng thời giải thể Đặc khu Vũng Tàu-Côn Đảo. Cả nước có 53 tỉnh thành.

Năm 1996: tỉnh Bắc Thái tách ra thành 2 tỉnh Bắc Cạn, Thái Nguyên; tỉnh Hà Bắc tách ra thành 2 tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh; tỉnh Nam Hà tách ra thành 2 tỉnh Hà Nam, Nam Định; tỉnh Hải Hưng tách ra thành 2 tỉnh Hải Dương, Hưng Yên; tỉnh Vĩnh Phú tách ra thành 2 tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc; tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng tách ra thành tỉnh Quảng Namthành phố Đà Nẵng; tỉnh Sông Bé tách ra thành 2 tỉnh Bình DươngBình Phước, tỉnh Minh Hải tách ra thành 2 tỉnh Bạc LiêuCà Mau. Cả nước có 61 tỉnh thành. Sáp nhập huyện đảo Hoàng Sa vào thành phố Đà Nẵng.

Năm 2004: tỉnh Lai Châu tách ra thành 2 tỉnh Lai Châu mới và Điện Biên; tỉnh Đắk Lắk tách ra thành 2 tỉnh Đắk Lắk mới và Đắk Nông; tỉnh Cần Thơ tách ra thành thành phố Cần Thơ và tỉnh Hậu Giang. Cả nước có 64 tỉnh thành.

Ngày 29 tháng 5 năm 2008, Quốc hội Việt Nam đã biểu quyết thông qua Nghị quyết về việc điều chỉnh địa giới hành chính thành phố Hà Nội và một số tỉnh có liên quan, theo đó hợp nhất toàn bộ tỉnh Hà Tây, chuyển toàn bộ huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc và 4 xã thuộc huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình về thành phố Hà Nội. Nghị quyết này có hiệu lực từ ngày 1 tháng 8 năm 2008. Hiện nay, Việt Nam có 58 tỉnh và 5 thành phố trực thuộc Trung ương.

Phân cấp hiện tại

Theo bản Hiến pháp Việt Nam 1992 quy định tại chương thứ 9:

CHƯƠNG IX: HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ UỶ BAN NHÂN DÂN

Điều 118 Các đơn vị hành chính của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau:

Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;

Tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện và thị xã

Huyện chia thành xã, thị trấn; thành phố thuộc tỉnh, thị xã chia thành phường và xã; quận chia thành phường.

Việc thành lập Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ở các đơn vị hành chính do luật định.

Theo đó Việt Nam có 3 cấp hành chính:

Cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

Sau nhiều lần chia tách, nhập lại, tính đến năm 2013 Việt Nam có 58 tỉnh và 5 thành phố trực thuộc Trung ương.

  • 5 thành phố trực thuộc Trung ương bao gồm:
  1. Cần Thơ
  2. Đà Nẵng
  3. Hà Nội
  4. Hải Phòng
  5. Thành phố Hồ Chí Minh
  • 58 tỉnh:
  1. An Giang
  2. Bà Rịa-Vũng Tàu
  3. Bạc Liêu
  4. Bắc Kạn
  5. Bắc Ninh
  6. Bắc Giang
  7. Bến Tre
  8. Bình Dương
  9. Bình Định
  10. Bình Phước
  11. Bình Thuận
  12. Cà Mau
  13. Cao Bằng
  14. Đắk Lắk
  15. Đắk Nông
  16. Điện Biên
  17. Đồng Nai
  18. Đồng Tháp
  19. Gia Lai
  20. Hà Giang
  21. Hà Nam
  22. Hà Tĩnh
  23. Hải Dương
  24. Hậu Giang
  25. Hòa Bình
  26. Hưng Yên
  27. Khánh Hòa
  28. Kiên Giang
  29. Kon Tum
  30. Lai Châu
  31. Lâm Đồng
  32. Lạng Sơn
  33. Lào Cai
  34. Long An
  35. Nam Định
  36. Nghệ An
  37. Ninh Bình
  38. Ninh Thuận
  39. Phú Thọ
  40. Phú Yên
  41. Quảng Bình
  42. Quảng Nam
  43. Quảng Ngãi
  44. Quảng Ninh
  45. Quảng Trị
  46. Sóc Trăng
  47. Sơn La
  48. Tây Ninh
  49. Thái Bình
  50. Thái Nguyên
  51. Thanh Hóa
  52. Thừa Thiên-Huế
  53. Tiền Giang
  54. Trà Vinh
  55. Tuyên Quang
  56. Vĩnh Long
  57. Vĩnh Phúc
  58. Yên Bái

Cấp huyện

Bài chi tiết Danh sách đơn vị hành chính cấp huyện của Việt Nam

Đây là cấp hành chính cấp 2 của Việt Nam, thấp hơn (về thẩm quyền), và thông thường thì cấp này cũng có quy mô dân số, diện tích, kinh tế nhỏ hơn cấp tỉnh. Mặt khác đây lại là cấp hành chính cao hơn cấp xã, phường, thị trấn. Cấp hành chính này có nhiều tên gọi khác nhau tùy theo cấp hành chính nó trực thuộc gồm

  • "Huyện" trực thuộc tỉnh và thành phố thuộc trung ương.
  • "Thị xã" thuộc tỉnh hoặc thành phố thuộc trung ương (như trước đây có thị xã Đồ Sơn thuộc Thành phố Hải Phòng, hiện tại đơn vị hành chính này đã được nâng lên thành quận, hoặc thị xã Sơn Tây thuộc thành phố Hà Nội).
  • "Thành phố" thuộc tỉnh là đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh hoặc trực thuộc thành phố thuộc trung ương (chưa có tên cấp thành phố như thế).
  • "Quận" chỉ áp dụng cho các đơn vị nội thành của thành phố thuộc trung ương.

Cấp xã, phường, thị trấn

Đây là đơn vị hành chính cấp cơ sở, thấp hơn cấp Huyện. Huyện: có các Thị trấn và Xã. Quận, Thị xã, Thành phố trực thuộc Tỉnh: có các Phường và Xã.

Xem thêm

Liên kết ngoài