𨀈𬧐內容

恪別𡧲版𢯢𢷮𧵑「戰爭越南」

4.717 bytes added 、 𣈜28𣎃6𢆥2015
𣳔148: 𣳔148:


黨勞動越南認定製度吳廷琰''"豫𠓨公安吧軍隊、豫𠓨地主吧私産賣本、豫𠓨公教吧民遺居底弓顧權統治𧵑琰"''<ref>Nghị quyết của Bộ Chính trị ngày 8, 9 và 12 tháng 6 năm 1956</ref>。軍隊越南共和外兵領義務遶令總動員群𣎏𠬠力量士觀專業、兵領情願爫檂榾。𥪝數領情願、軍隊越南共和注重拮噎仍士觀賞直卒業[[場武備國家沱辣]]𪫶𡨹仍職務𣏿椊底指揮領軍役、候歇數呢調出身自層立中流、得出外遊學、釋𨇒𤯩方西。外𠚢、𥪝各單位自級中團𧿨𨖲調𣎏組織宣蔚。𣎏材料朱哴組織呢𥆂開柝徹底數軍人遶各尊教、利用𢚸崇道𧵑𣱆底宣傳、𡏦𥩯數呢𧿨成仍力量榾桿𢶢共産。𠬠原因恪底越南共和收吸得青年加入軍隊群羅侞𠓨仍款援助𧵑美。政各款援助呢㐌保擔朱軍人𥪝軍隊越南共和𣎏𠬠𠁀𤯩物質將對隱定、外𠚢譴𣱆信想爲𣎏得渃美超強互助。仍𩈘𣡚𧵑正冊呢羅:欺美減援助、欺各封嘲鬥爭反戰浽𨖲、分𡘯兵士𠅍𢚸信𠓨製度越南共和。<ref>[https://archive.is/20130707084627/www.qdnd.vn/qdndsite/vi-vn/89/70/84/84/84/154675/Default.aspx Trần Quang Khôi và nỗi niềm trong trại cải huấn, Bùi Vũ Minh, Báo điện tử Quân đội nhân dân]</ref>
黨勞動越南認定製度吳廷琰''"豫𠓨公安吧軍隊、豫𠓨地主吧私産賣本、豫𠓨公教吧民遺居底弓顧權統治𧵑琰"''<ref>Nghị quyết của Bộ Chính trị ngày 8, 9 và 12 tháng 6 năm 1956</ref>。軍隊越南共和外兵領義務遶令總動員群𣎏𠬠力量士觀專業、兵領情願爫檂榾。𥪝數領情願、軍隊越南共和注重拮噎仍士觀賞直卒業[[場武備國家沱辣]]𪫶𡨹仍職務𣏿椊底指揮領軍役、候歇數呢調出身自層立中流、得出外遊學、釋𨇒𤯩方西。外𠚢、𥪝各單位自級中團𧿨𨖲調𣎏組織宣蔚。𣎏材料朱哴組織呢𥆂開柝徹底數軍人遶各尊教、利用𢚸崇道𧵑𣱆底宣傳、𡏦𥩯數呢𧿨成仍力量榾桿𢶢共産。𠬠原因恪底越南共和收吸得青年加入軍隊群羅侞𠓨仍款援助𧵑美。政各款援助呢㐌保擔朱軍人𥪝軍隊越南共和𣎏𠬠𠁀𤯩物質將對隱定、外𠚢譴𣱆信想爲𣎏得渃美超強互助。仍𩈘𣡚𧵑正冊呢羅:欺美減援助、欺各封嘲鬥爭反戰浽𨖲、分𡘯兵士𠅍𢚸信𠓨製度越南共和。<ref>[https://archive.is/20130707084627/www.qdnd.vn/qdndsite/vi-vn/89/70/84/84/84/154675/Default.aspx Trần Quang Khôi và nỗi niềm trong trại cải huấn, Bùi Vũ Minh, Báo điện tử Quân đội nhân dân]</ref>
==== 仍𠊛共産於沔南 ====
{{正|戰爭越南(沔南、1954-1959)}}
===== 階段 1954 - 1956 =====
Theo Hiệp định Genève, lực lượng quân sự của mỗi bên tham gia cuộc chiến Đông Dương (1945-1955) sẽ rút khỏi lãnh thổ của phía bên kia. Lực lượng [[Quân đội Nhân dân Việt Nam|Quân đội Nhân dân]] ở miền Nam phải di chuyển về phía Bắc vĩ tuyến 17. Nhưng theo ước tính của Mỹ, vẫn còn 100.000<ref name="insurgency"/> cán bộ, đảng viên các ngành vẫn được bố trí ở lại.<ref name="quankhu8">Quân khu 8 ba mươi năm kháng chiến (1945 - 1975), chương 4: Đấu tranh chính trị, giữ gìn lực lượng khởi nghĩa từng phần, tiến tới Đồng Khởi (20-7-1955 đến cuối năm 1959), Đảng uỷ - Bộ tư lệnh quân khu 9, Nxb Quân đội Nhân dân, 1998, trang 276-332</ref> Đồng thời một số cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang dày dạn kinh nghiệm được chọn lọc làm nhiệm vụ bảo vệ lãnh đạo Đảng, thâm nhập vào tổ chức quân sự và dân sự của đối phương hoặc nắm lực lượng vũ trang giáo phái để dự phòng cho việc phải chiến đấu vũ trang trở lại.<ref name="quankhu8"/> Việt Minh cũng chôn giấu một số vũ khí và đạn dược tốt để sử dụng khi cần.<ref>Chỉ riêng Quân khu 8 đã để lại số vũ khí đủ trang bị cho 3 tiểu đoàn. Trong chiến dịch chống cộng, chính quyền Việt Nam Cộng hoà đã phát hiện 707 hầm chứa vũ khí, thu giữ 119.954 vũ khí và 75 tấn tài liệu.</ref> Bên cạnh đó Trung ương Đảng đã cử nhiều cán bộ có kinh nghiệm, am hiểu chiến trường về miền Nam lãnh đạo phong trào hoặc hoạt động trong hàng ngũ đối phương.<ref>Quân khu 8 ba mươi năm kháng chiến (1945 - 1975), chương 4: Đấu tranh chính trị, giữ gìn lực lượng khởi nghĩa từng phần, tiến tới Đồng Khởi (20-7-1955 đến cuối năm 1959), trang 285, Đảng uỷ - Bộ tư lệnh quân khu 9, Nxb Quân đội Nhân dân, 1998</ref>
Trong giai đoạn này, Việt Minh chủ trương dùng nhiều hình thức tuyên truyền chống chính quyền Ngô Đình Diệm và lợi dụng các tổ chức hợp pháp (hội đồng hương, công đoàn, vạn cấy...) tập hợp quần chúng đấu tranh chính trị đòi Tổng tuyển cử thống nhất đất nước, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ cán bộ - đảng viên. Hoạt động vũ trang bị hạn chế nên thời kỳ này chưa có những xung đột quân sự lớn và công khai giữa hai bên. Các vụ bạo lực chỉ giới hạn ở mức tổ chức các vụ ám sát dưới tên gọi ''diệt ác trừ gian'', hỗ trợ các giáo phái chống chính quyền Ngô Đình Diệm hoặc thành lập các đại đội dưới danh nghĩa giáo phái<ref>Quân khu 8 ba mươi năm kháng chiến (1945 - 1975), chương 4: Đấu tranh chính trị, giữ gìn lực lượng khởi nghĩa từng phần, tiến tới Đồng Khởi (20-7-1955 đến cuối năm 1959), trang 303-304, Đảng uỷ - Bộ tư lệnh quân khu 9, Nxb Quân đội Nhân dân, 1998</ref>, hoặc dưới hình thức các tổ chức quần chúng (dân canh, chống cướp...) để đấu tranh chính trị.
Chính quyền Ngô Đình Diệm đối phó với những cuộc đấu tranh chính trị bằng cách thực hiện chiến dịch "''tố cộng, diệt cộng''" nhằm loại bỏ những cán bộ Việt Minh hoạt động bí mật. Từ tháng 5-1955 đến tháng 5-1956, Ngô Đình Diệm phát động ''"chiến dịch tố cộng"'' giai đoạn 1 trên quy mô toàn miền Nam; tháng 6-1955, mở [[chiến dịch Thoại Ngọc Hầu]] càn quét những khu từng là căn cứ [[chiến tranh Đông Dương|kháng chiến chống Pháp]] của [[Việt Minh]]. Việt Minh đáp trả bằng những cuộc biểu tình đòi thả cán bộ của họ hoặc tổ chức các cuộc ''diệt ác trừ gian'' - tiêu diệt nhân viên và cộng tác viên của chính quyền Ngô Đình Diệm được gọi là "''bọn ác ôn và bọn do thám chỉ điểm''".<ref>Quân khu 8 ba mươi năm kháng chiến (1945 - 1975), chương 4: Đấu tranh chính trị, giữ gìn lực lượng khởi nghĩa từng phần, tiến tới Đồng Khởi (20-7-1955 đến cuối năm 1959), trang 308, 313, Đảng uỷ - Bộ tư lệnh quân khu 9, Nxb Quân đội Nhân dân, 1998</ref>


==參考==
==參考==